Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Việt Nam và “lời nguyền địa lý”

Nếu tác giả viết thêm về chiến lược văn hóa của TQ đối với VN và chiến lược thâu tóm các nước xung quanh VN, cùng những tư tưởng coi việt nam là thù địch và mong muốn tấn công VN của các thành phần trong xã hội TQ thể hiện qua các phát biểu, bình luận, giả thiết, trên báo chí chính thống và báo mạng TQ, ta sẽ có bức tranh toàn cảnh xám xịt. Đường lối nào để VN vững bước đi lên???.

Một số nhà nghiên cứu ví von nếu nhìn Trung Quốc và các quốc gia láng giếng giống như một con gà trống, với Trung Quốc là thân, bán đảo Triều Tiên là chiếc mỏ và Việt Nam là chân của con gà. Hình ảnh so sánh này một mặt cho thấy tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc, đặc biệt là về an ninh, một mặt ám chỉ tới một thực tế rằng Việt Nam từ hàng ngàn năm qua đã gánh trên vai mình, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, sức nặng của Trung Quốc. Vấn đề là Việt Nam nếu muốn cũng không thể làm được gì để thay đổi thực tế này.

Vì vậy, cũng giống như Cuba đối với Mỹ hay Grudia đối với Nga, Việt Nam, như cách nói của giáo sư Carl Thayer, đã bị chi phối bởi một "lời nguyền địa lý" (tạm dịch từ "tyranny of geography"). Theo đó Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài học cách chia sẻ số phận của mình với người láng giềng Trung Quốc trong suốt từng bước đi lịch sử của mình.
Trong thực tế, một nước Trung Quốc mạnh hơn từ lâu đã là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với an ninh của Việt Nam. Việt Nam đã nằm dưới ách thống trị của các triều đại Trung Quốc suốt gần một ngàn năm cho đến năm 938 sau Công nguyên. Từ thời điểm đó cho tới khi Việt Nam bị Pháp biến thành thuộc địa vào nửa sau thế kỷ 19, Trung Quốc đã xâm lược và chiếm đóng Việt Nam một vài lần…Các mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam không chỉ xuất phát từ sự gần gũi về mặt địa lý mà còn từ sự bất đối xứng về sức mạnh giữa hai nước. Ví dụ như Trung Quốc rộng gấp 29 lần so với Việt Nam, và dân số của Việt Nam, mặc dù đông thứ 14 thế giới, cũng chỉ tương đương với số dân một tỉnh tầm trung của Trung Quốc mà thôi.
Thành tích kinh tế ấn tượng của Việt Nam từ cuối những năm 1980 cũng không cho phép Việt Nam thu hẹp khoảng cách sức mạnh với Trung Quốc. Ngược lại, cùng với quá trình hiện đại hóa của Trung Quốc trong ba thập kỷ qua, khoảng cách quyền lực giữa hai nước càng được nới rộng. Ví dụ, theo dữ liệu Ngân hàng Thế giới, GDP của Trung Quốc tính theo đô la Mỹ hiện hành đã tăng hơn 16 lần trong khoảng thời gian từ 1985 đến 2009, từ 307 tỷ USD lên 4.985 tỷ USD. Tuy nhiên, trong cùng thời gian trên, GDP của Việt Nam chỉ tăng 7 lần, từ 16 tỷ USD vào năm 1985 lên 97 tỷ USD trong năm 2009.
Nhờ kinh tế phát triển, sức mạnh quân sự của Trung Quốc cũng được gia tăng mạnh mẽ, đặt ra một mối đe dọa lớn hơn đối với an ninh Việt Nam. Trong năm 2011, theo tuyên bố chính thức của Trung Quốc, ngân sách quân sự của nước này là 91,5 tỷ USD, trong khi Việt Nam được cho là chỉ chi 2,6 tỷ USD cho quốc phòng (khoảng 2,5% GDP). Điều đặc biệt đáng lo ngại đối với Việt Nam là chi phí quân sự gia tăng của Trung Quốc được tập trung dành cho lực lượng không quân và hải quân, giúp nước này tăng cường khả năng triển khai sức mạnh quân sự ở khu vực Biển Đông, nơi Trung Quốc và Việt Nam đang có tranh chấp chủ quyền.
Ảnh minh họa: tutor2u.net
Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi của Việt Nam sang một nền kinh tế thị trường mở lại bổ sung thêm một khía cạnh khác cho "lời nguyền địa lý" mà Việt Nam phải gánh chịu, đó chính là khả năng bị tổn thương về kinh tế ngày càng gia tăng.
Kể từ khi Việt Nam nối lại quan hệ thương mại với Trung Quốc vào cuối những năm 1980, sản xuất trong nước của Việt Nam đã từ lâu bị đe dọa bởi hàng hóa Trung Quốc, tràn vào Việt Nam thông qua đường thương mại chính thức lẫn buôn lậu. Ví dụ như vào đầu những năm 1990, hàng tiêu dùng Trung Quốc nhập lậu vào Việt Nam quá nhiều và gây bất lợi cho sản xuất trong nước đến mức chính phủ Việt Nam đã phải áp đặt một lệnh cấm trên 17 chủng loại hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong những năm gần đây, bất chấp khả năng cạnh tranh ngày càng cao của sản phẩm Việt Nam và ấn tượng về tình trạng kém chất lượng của hàng hóa Trung Quốc, buôn lậu từ Trung Quốc vẫn còn phổ biến. Điều này không chỉ tạo nên tác động tiêu cực đối với sản xuất trong nước mà còn đe dọa người tiêu dùng Việt Nam, đặc biệt là khi nhiều mặt hàng nhập lậu từ Trung Quốc có chất độc hại, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của người dùng.
Một điểm dễ bị tổn thương khác chính là tình trạng thâm hụt thương mại kinh niên của Việt Nam với Trung Quốc, lên tới 5,4 tỷ USD trong tổng thâm hụt thương mại 7,5 tỷ USD của Việt Nam trong nửa đầu năm 2011. Hơn nữa, Trung Quốc đã nổi lên như là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần một phần tư kim ngạch nhập khẩu trong năm 2010. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc đối với các nguyên liệu đầu vào cho một số ngành xuất khẩu chủ yếu của mình, chẳng hạn như giày dép, dệt may, hay đồ nội thất. Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc. Vì vậy, nếu Trung Quốc quyết định ngưng trao đổi thương mại với Việt Nam vì lý do nào đó, thiệt hại cho nền kinh tế của Việt Nam sẽ là rất lớn.
Một mối quan ngại được nêu lên ở Việt Nam gần đây chính là việc các công ty Trung Quốc đã giành được đến 90% các hợp đồng EPC (Thiết kế/Mua sắm/Xây lắp) cho các dự án công nghiệp lớn của Việt Nam, đặc biệt là các nhà máy điện đốt than. Nhà thầu Trung Quốc được ưa chuộng vì họ cung cấp công nghệ giá rẻ và hứa sẽ giúp đỡ bố trí vốn cho chủ đầu tư từ các ngân hàng Trung Quốc. Dù có vẻ là rẻ nhưng trong thực tế Việt Nam đang phải trả giá đắt cho các hợp đồng này.
Thứ nhất, công nghệ rẻ gây nên ô nhiễm. Các báo cáo cho thấy một số công nghệ được cung cấp bởi các công ty Trung Quốc đã bị nước này đào thải hoặc cấm sử dụng từ năm 2005. Thứ hai, năng lực nhà thầu Trung Quốc hạn chế làm cho nhiều dự án bị chậm tiến độ, ngay cả khi dự án hoàn thành đúng thời hạn thì họ cũng để lại cho các chủ dự án những hóa đơn bảo dưỡng tốn kém. Thứ ba, do nhà thầu Trung Quốc từ chối sử dụng các sản phẩm sẵn có ở địa phương và thay vào đó nhập khẩu mọi thứ từ Trung Quốc, kể cả những chi tiết cơ bản như bù-loong, nên góp phần làm cho thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng cao. Nhà thầu Trung Quốc thậm chí không sử dụng lao động địa phương mà còn đưa lao động Trung Quốc vào làm việc bất hợp pháp, gây nên sự phản đối trong công luận Việt Nam.
Một điểm dễ bị tổn thương về kinh tế của Việt Nam xuất phát từ Trung Quốc được thể hiện trong thời gian gần đây liên quan đến việc các thương lái Trung Quốc mua ào ạt số lượng lớn nông sản Việt Nam, từ vải thiều, sắn đến hải sản hay thịt lợn. Điều này đã góp phần khiến giá thực phẩm tại Việt Nam tăng mạnh, khiến cho tới tháng Sáu lạm phát đã tăng 20,8% so với cùng kỳ năm ngoái bất chấp những nỗ lực kiềm chế lạm phát của chính phủ.
Những điểm dễ tổn thương về kinh tế hiện nay mang lại cho Việt Nam một mối đe dọa khác bên cạnh những mối đe dọa quân sự vốn rõ ràng hơn. Nếu Trung Quốc quyết định phát động một cuộc "chiến tranh kinh tế", Việt Nam sẽ gánh chịu hậu quả nặng nề.
Tuy nhiên, Việt Nam dường như có ít lựa chọn để xử lý tình trạng dễ bị tổn thương của mình trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Một mặt, các phản ứng nếu có sẽ bị hạn chế bởi thực tế rằng Việt Nam hiện phải tuân thủ các luật lệ thương mại và đầu tư quốc tế, như các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới mà Việt Nam đã là thành viên từ đầu năm 2007. Mặt khác Việt Nam cũng phải cảnh giác về khả năng trả đũa quy mô lớn nếu có động thái tiêu cực đối với Trung Quốc.
Tất nhiên, ở đây cũng không thể không kể tới các điểm tích cực. Việt Nam hy vọng rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng, cho dù không đối xứng, cũng sẽ giúp làm giảm khả năng Trung Quốc tấn công quân sự Việt Nam, đặc biệt là trên Biển Đông. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng nhận thấy hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn ít tốn kém và thuận tiện hơn so với hợp tác với doanh nghiệp các nước khác.
Chính vì vậy, Việt Nam vẫn muốn kiên trì hợp tác kinh tế với Trung Quốc, tiếp tục cố gắng gặt hái càng nhiều lợi ích càng tốt từ nền kinh tế đang bùng nổ của người hàng xóm phương Bắc. Nhưng tục ngữ Việt Nam vẫn có câu "mật ngọt chết ruồi". Việt Nam vì vậy cần phải luôn nhận thức đầy đủ về các nguy cơ và tìm ra các chiến lược phù hợp để ít nhất có thể hóa giải được khía cạnh kinh tế mới nổi của "lời nguyền địa lý" mà Việt Nam đang phải gánh chịu.
-----------------------------------------
Tác giả hiện đang là nghiên cứu sinh tiến sĩ quan hệ quốc tế tại ĐH New South Wales, Australia. Bài nguyên gốc tiếng Anh đã được đăng trên the Diplomat.

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

Các nước ASEAN có quyền lợi ở biển đông sẽ làm gì nếu...

Nếu giàn khoan này mang đến vùng nước đang được tranh chấp bởi Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei tại khu vực Trường Sa nhưng ngoài khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của từng nước, Trung Quốc đang dựa vào thói quen "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa", thiếu đoàn kết của ASEAN,  để các nước tự nhìn nhau và bản thân mình tránh va chạm.

Giàn khoan Trung Quốc đe dọa an ninh Biển Đông

Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 xuống Biển Đông cùng với những động thái trưng bày sức mạnh hải quân là hành động liên tiếp trong chiến lược xâm chiếm và bành trướng xuống Biển Đông nhằm khai thác dầu khí ở Biển Đông bất chấp UNCLOS 1982, luật pháp quốc tế và Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông 2002.
Trung Quốc cho tàu Hải Tuần 31 rời bến ngày 15/6 qua vùng Biển Ðông và ghé Hoàng Sa, Trường Sa đến Singapore. Truyền thông nước này cho biết đây là  tàu hải tuần lớn nhất của họ ra Hoàng Sa và Trường Sa giữa lúc căng thẳng gia tăng tại vùng biển tranh chấp này. Ngoài ra Trung Quốc đang hoàn thành và sắp đưa giàn khoan kích thước lớn ra Biển Đông gây xôn xao dư luận trên thế giới. Sự kiện này nằm trong chiến lược ngoại giao pháo hạm, xâm lấn bằng tàu dân sự để bành trướng xuống Biển Đông, phục vụ việc sở hữu năng lượng của Trung Quốc. Bài viết này trình bày mXuất bản Bài đăng
ột số điểm liên quan đến giàn khoan khổng lồ của Trung Quốc và những ảnh hưởng đến an ninh khu vực Biển Đông.
1. Giới thiệu
Với những tiến bộ  về khoa học công nghệ hải dương và đóng tàu, Trung Quốc đang có những thành công trong lĩnh vực chế tạo và sản xuất hàng loạt tàu chiến hạng siêu nặng, giàn khoan dầu khí khổng lồ nhằm khai thác tài nguyên biển phục vụ phát triển quân sự và kinh tế của mình. Sẽ có ít bàn cãi, nếu các hoạt động của các kết cấu này diễn ra trong vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia sở hữu, nhưng ngược lại,  nếu các thiết bị này được dùng như lá bài thăm dò và khai thác dầu khí mà thực chất đó lại là những cấu kiện nhằm tìm chiếm tài nguyên tại các vùng biển thuộc chủ quyền nước khác, việc này không khác gì hành động xâm lược. Những thách thức của các kết cấu này thật  hiển nhiên, do đó việc chuẩn bị  các giải pháp xử lý theo chủ quyền Việt Nam, theo đúng luật quốc tế là cần thiết. Theo UNCLOS và các bộ luật khác, hiện chưa có quy chế nào về việc lấn biển hay hình thành đảo nhân tạo cũng như chưa có quy chế vùng ngoại vi cho các thực thể này ngoài khơi hay gần bờ.[1]
Vậy thì thực thể này (giàn khoan dầu khí khổng lồ) có ý nghĩa gì? Được hưởng những quy chế nào? Và Trung Quốc sẽ tiến hành đặt giàn khoan khổng lồ này ở đâu và sẽ gây ảnh hưởng tới các nước vành đai Biển Đông như thế nào?
Do Trung Quốc có nhiều chiêu bài, nhiều cách thức và biện pháp để phục vụ mục đích cuối cùng của họ là độc chiếm Biển Đông, những ai quan tâm đến tình hình an ninh và ổn định ở khu vực Biển Đông và trên thế giới chắc chắn sẽ có những quan ngại nhất định.
Chú thích cho bản đồ trong Hình 1:
Đường mầu xanh nước biển là đường phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý cách đường cơ sở của các quốc gia chung Biển Đông. Theo cách phân chia giả định này dựa trên giả thiết các đảo trong quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Scarborough  không được hưởng quy chế 100% hiệu lực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà chỉ được hưởng quy chế lãnh hải 12 hải lý.
Khu vực khép kín bởi đường mầu xanh nước biển nằm giữa đường phân định đặc quyền kinh tế là khu vực chung, được coi là vùng thềm lục địa chung của các quốc gia chung Biển Đông cần có thỏa thuận phù hợp trong việc khai thác tài nguyên và đánh bắt cá.
Các chấm tròn màu xanh lá cây thể hiện lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo được cho là có tranh chấp thuộc các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Scarborough. Đường mầu xanh lá cây là đường trung tuyến cách đều bờ từ Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đường mầu đỏ đứt đoạn là đường chữ U (lưỡi bò) của Trung Quốc.
Chúng ta thử đưa ra các giả định để tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn này.
Trung Quốc sẽ mang giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 tới vị trí nào trên Biển Đông? Từ bản đồ trong Hình 1, chúng ta có thể thấy có một trong những kịch bản sau:
  • Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng Đặc quyền kinh tế của
  • Trung Quốc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng khu vực chung
  • Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng EEZ của Việt Nam
  • Trung Quốc đưa giàn khoan vào một ví trị nằm vùng giới hạn bởi đường xanh lá cây Kịch bản khác...
2. Sự kiện
Sự cố tình chủ ý vi phạm chủ quyền Trường Sa củaViệt Nam của Trung Quốc từ năm 1984
Chủ nghĩa đế quốc và ngành hải dương học thường đi cùng nhau, đó là kinh nghiêm đúc kết từ các siêu cường biển trong lịch sử như Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan, Mỹ, Nga. Trung Quốc cũng đang đặt mục tiêu trở thành siêu cường biển mới trên thế giới nên họ đã đang dùng nhiều thủ đoạn nghiên cứu đáy biển, mặt biển thuộc chủ quyền của các quốc gia láng giềng tại Biển Đông, nhằmphục vụ các tham vọng kinh tế và chính trị của mình.
Theo những tài liệu mà chúng tôi tham khảo, từ năm 1984 đến năm 1986, Viện Hải dương học Nam Hải và từ 1987-1991 Viện Khoa học quốc gia Trung Quốc gồm nhiều cơ quan, đã vi phạm chủ quyền biển Việt Nam và thực hiện nhiều nghiên cứu địa chất hải dương chi tiết tại khu vực Trường Sa và lân cận. Họ đã xuất bản tập tổng kết năm 1992, 400 trang, với nhiều kết luận về khoáng sản đáy biển Trường Sa và cho  rằng những kết quả này là  bước đầu trong công cuộc khai thác và mở rộng biên giới biển phía Nam cho họ[1]. Thời gian này do vừa kết thúc chiến tranh và hạn chế điều kiện, Việt Nam chỉ có thể  khởi động nghiên cứu về Trường Sa từ sau năm 1990. Chúng ta cần tiến hành nghiên cứu sâu hơn, chất lượng hơn và đi vào thực tiễn hơn nữa để có đủ kiến thức và phản bác những hành vi lấn chiếm của Trung Quốc trên các diễn đàn, hội nghi khoa học quốc tế.
Năm 2010, Trung Quốc tuyên bố đã dùng tàu ngầm thực hiện cắm cờ của họ dưới đáy Biển Đông ở 17 điểm, trong đó  điểm có độ sâu  nhất là 3759 m. Tuy vậy do họ không công khai vùng biển nào trên Biển Đông, nên đã có  quan ngại lớn cho các quốc gia lân cận và cả toàn thế giới.
Đầu năm 2011 Trung Quốc đã khởi động dự án South China Sea Deep (Vùng nước sâu Biển Đông) trước tiên là nghiên cứu các hướng phát triển của đáy đại dương, kế đó là trầm tích, khí hậu, sinh học đáy đại dương. Đó là việc hấp thu cacbon của các vi sinh vật, cuộc sống dưới đáy biển, sự trao đổi dưỡng chất và phiêu sinh vật... tại nhiều vùng ở Biển Đông cũng như giữa Biển Đông và Thái Bình Dương. Đề án trên do nhà khoa học Uông Phẩm Tiên, thuộc Đại Học Đồng Tế ở Thượng Hải chủ trì. Ông này có thể đã nhờ đến sự hỗ trợ của Giao Long, con tàu lặn hiện đại nhất của Trung Quốc, có khả năng lặn sâu đến 7km dưới đáy biển. Dự án được đưa ra một phần từ nghiên cứu của chiếc Đại Dương Nhất Hiệu năm 2007 về những dải kiến tạo ở giữa đại dương do các dịch chuyển của vỏ trái đất. Đồng thời, các nhà thám hiểm trên tàu này cũng phát hiện được vị trí nhiều mỏ đồng, chì, kẽm cũng như các nguồn thủy nhiệt tại đây.
Những nỗ lực khoa học của Trung Quốc thực đáng khâm phục, song nếu những thành quả khoa học này được sử dụng cho mục đích cuối cùng là khống chế những vùng biển chung của nhân loại vì lợi ích kỷ của một tập đoàn cầm quyền thì thế giới cần có biện pháp ngăn chận.
Cuối năm 2011 Trung Quốc cho triển khai loạt 6 tàu dầu khí, trong đó có giàn khoan khổng lồ CNOOC 981. Đây là giàn khoan chủ lực của Trung Quốc nhằm khai thác tài nguyên biển sâu. Giàn khoan 981 được mệnh danh là "hàng không mẫu hạm" trên biển[2] ,được trang bị các thiết bị hiện đại nhất thế giới.
Trung Quốc đã thực hiện thành công khá nhiều toan tính của họ tại Biển Đông, liên tục leo thang gây căng thẳng từ tháng ba năm 2011 tại vùng biển gần Philippines đến cắt cáp thăm dò hai tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam ngày 26/05/2011 và ngày 09/06/2011. Trung Quốc liên tục gây hấn, liên tục xoa dịu thế giới và đẩy khu vực Đông Nam Á vào chính sách "bên miệng hố chiến tranh". Tại sao?
Chưa nói xa thêm về chiến lược Chuỗi Ngọc Trai[3] vốn được họ hoạch định sẽ bao trùm Ấn Độ Dương, chúng ta hãy quan sát các động thái tiếp theo. Ngoài ý đồ đánh vẹt Việt Nam đang đơn độc và Philipines cả tin ra hai bên để lấn xuống trọn vẹn hai cánh  của đường chữ U. Để sau này tiến xuống thanh toán ba nước Indonesia, Brunei, Malaysia mà hiện nay vẫn đang quan sát, Trung Quốc còn có 1 chủ ý khác.
Đó là ra vẻ giảm nhẹ căng thẳng về tinh thần, tức tạm ngưng quấy phá, để thực hiện một chiến dịch chiếm đóng thực tế bằng các khối sắt thép đồ sộ, những giàn khoan[4]-dưới dạng đảo nhân tạo. Từ đó tạo thế cho những con tàu quân sự ngụy trang dân sự, hoặc cả những con tàu quân sự có nơi giao lưu dễ dàng về tiếp vận, về thông tin và cả về tinh thần của đoàn quân viễn chinh tương lai. Chúng ta hãy theo dòng sự kiện gần đây mà Trung Quốc đã gây ra với Việt Nam để gây sức ép như sau .
Ngày 28/5/2011 Trung Quốc đề nghị hợp tác khai thác 19 lô dầu khí ở ngoài khơi Biển Đông (theo phương án gác tranh chấp cùng khai thác).
Ngày 10/6/2011 Trung Quốc đã liên tiếp đe dọa Idemitsu, BP và ExxonMobil nếu các Tập đoàn này không rút các dự án khỏi Việt Nam.
Trong dòng chảy sự kiện, chúng ta thấy ngày 26/05/2011 (sự cố Bình Minh 2) và ngày 09/06/2011 (sự kiện Viking 2) chẳng qua chỉ là những mắt xích nhỏ trong toàn bộ hệ thống của Trung quốc đang thực hiện để xâm chiếm tài nguyên trong vùng biển Việt nam .
Chúng ta có thể quan sát sự ra đời và phô diễn hàng loạt sản phẩm khổng lồ trong năm 2011 của Trung Quốc:
2.1 Tàu sân bay Thi Lang[5]
Tầu sân bay Thi Lang có chiều dài 302 mét, chiều rộng 70,5 mét, vận tốc đạt 29-31 hải lý/giờ (khoảng 53 đến 57 km/h), có thể chuyên chở được 50 máy bay chiến đấu và chứa thêm nhiều máy bay trực thăng[6].
Tên chính thức cho con tàu này vẫn còn đang bàn cãi. Có thể tên tàu sẽ là "Trung Sơn" hoặc "Mao Trạch Đông" hoặc 'Tát Chấn Băng",đề đốc thủy sư thời Bắc Dương, đại thần thời Viên Thế Khải, ủy viên Quân ủy Trung ương sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập[7].
"Thi Lang vốn là hình mẫu của Varyag được Nga bán laị cho Trung Quốc làm sắt vụn vào giữa những năm 1990. Cũng trên cơ sở mẫu của thiết bị quân sự thanh lý này, Trung Quốc sẽ còn chế tạo 2 tàu khác vào năm 2020. Chiếc đầu, sẽ giống tàu "Varyag" (mua trực tiếp của Ukraine với giá 20 triệu đôla), còn chiếc thứ hai, như các chuyên gia quân sự Nga khẳng định, sẽ hao hao với chiếc tàu sân bay nguyên tử của Liên Xô cũ chưa kịp hoàn thành mang tên "Ulianovsk", mà dường như Ukraine bí mật chuyển giao cho Trung Quốc.
Máy bay tiêm kích trên boong tàu sẽ là chiếc J-15 "hàng nhái" của Su-27 của Nga. Nhờ bộ hồ sơ kỹ thuật của Su-27 và nguyên mẫu của Ukraine, Trung Quốc đã tự chế tạo máy bay tiêm kích trên boong tàu sân bay của họ gọi là J-15.
Hệ thống radar trên chiếc hàng không mẫu hạm này, theo chuyên  gia Nga, cũng sao chép nguyên mẫu trạm radar "Chuỗi ngọc" loại hiện đại nhất của Nga, sản phẩm của Liên hiệp sản xuất "Fazotron". Trạm này chính là một phiên bản của Trạm "Zuk", vừa được đề xuất cho máy bay tiêm kích Mig-35, loại máy bay mới nhất của Nga (mà không hiểu sao Trung Quốc có được). Các trang thiết bị của máy bay cũng sao chép những bản thiết kế máy bay tiêm kích của Nga.
Các trang thiết bị huấn luyện trên bờ hoàn toàn là phiên bản boong tàu sân bay, cho phép huấn luyện các phi công, mô phỏng hoạt động của tàu sân bay khi đang ở giữa biển, các thao tác hạ cánh và cất cánh của máy bay tiêm kích. Tất cả giáo án tập luyện đó các chuyên gia Trung Quốc đã được làm quen tại Ukraine (khi mua lại tàu sân bay của Ukraine).
Giới chuyên gia Nga cho rằng, bằng việc sao chép công nghệ, Trung Quốc đã tiết kiệm được 1 tỷ đô la và 20 - 25 năm trong việc chế tạo tàu sân bay Thi Lang."[8]
2.2 Giàn khoan CNOOC 981
Giàn khoan CNOOC 981 dài 114 m, rộng 90 m, gồm năm tầng cao 136 m (tương đương tòa nhà 45 tầng). Trọng tải tịnh hơn 30.000 tấn. Diện tích boong tương đương sân vận động bóng đá đúng tiêu chuẩn. Giàn khoan có đầy đủ hệ thống phục vụ cho 160 công nhân làm việc và nghỉ ngơi. Đây là giàn khoan kiểu nửa chìm hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000 m, độ sâu giếng khoan tối đa 12.000 m, thuộc thế hệ thứ sáu trên thế giới và là Giàn khoan cấp siêu sâu đầu tiên do Trung Quốc sản xuất[9]. Hiện nay trên thế giới chỉ có khoảng 20 giàn khoan hoạt động ở độ sâu 3.000m."
Giàn khoan này có giá trị cao, tiêu tốn hơn chín trăm hai mươi triệu USD và có ích lợi đối với Trung Quốc như là một pháo đài quân sự ngụy trang, một cơ sở nghiên cứu khoa học đại dương, một nhà máy khoan dầu khổng lồ... Bản thân giàn khoan này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho môi trường, phá hoại môi sinh. Và đây cũng chính là mối nguy rất lớn đối với các quốc gia láng riềng về mặt quốc phòng an ninh, về nguy cơ chiếm dụng khai thác tài nguyên khoáng sản biển sâu.
2.3 Một số tàu dầu khí phục vụ các mục đích khác
  • Tàu thăm dò địa chấn 12 cáp quang Dầu mỏ hải dương 720
  • Tàu thăm dò Dầu mỏ hải dương 708
  • Tàu đặt ống nước sâu Dầu mỏ hải dương 201.
  • Tàu công trình đa năng Dầu mỏ hải dương 681
  • Tàu công trình tự chạy kiểu nửa chìm Dầu mỏ hải dương 278.
Các nước ASEAN có thể sẽ mất cảnh giác vì đã qua nhiều năm tháng chịu đựng sóng gió với những cuộc cắt cáp, đe dọa, dọa trừng phạt kinh tế, xua đuổi nước thứ ba can dự. Các nước ASEAN có thể chưa biết rằng các giàn khoan khổng lồ này chính là các pháo đài ngoài khơi  quan trọng trong bước lấn chiếm Biển Đông từ ngôn từ đi ra hiện thực.
Đây là chiêu thức đẩy sự việc đến căng thẳng tột cùng sau đó giảm nhẹ và thực hành chiếm cứ thật sự.
3. Các kịch bản cho các Giàn khoan, tiền đồn quân sự của Trung Quốc
Nếu giàn khoan này mang đến đặt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, hay Indonesia (xem Hình 1) như một thách thức chủ quyền của một trong năm nước này, Trung Quốc coi như đã phớt lờ luật pháp quốc tế bằng một hành động ngang ngược và từng nước sẽ có cách xử lý riêng của mình.
Khi giả thiết rơi vào một trong năm nước đã nêu, có nghĩa là Trung Quốc đã khẳng định sẽ sẵn sàng va chạm để xác định đường chữ U là có giá trị thực tế. Nếu giàn khoan này mang đến vùng nước đang được tranh chấp bởi Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei tại khu vực Trường Sa nhưng ngoài khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của từng nước, Trung Quốc đang dựa vào thói quen "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa", thiếu đoàn kết của ASEAN,  để các nước tự nhìn nhau và bản thân mình tránh va chạm.
Nếu Trung Quốc mang giàn khoan lớn này đến đóng ngoài các vùng tranh chấp và ngoài các vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của các nước thì điều đó có phải họ có thiện chí xuống thang các đòi hỏi của họ dạng đường chữ U hay không?
Trong trường hợp này, giàn khoan lớn này như một căn cứ quân sự (gỉa dạng) xa bờ tại vùng biển Ðông, Trung Quốc sẽ thách thức câu nói của Ngoại Trưởng Mỹ tại ARF một cách trực diện. Lợi ích quốc gia của Mỹ là thông thương và hải hành tại Biển Đông. Vậy đối tượng chính bị thách thức sẽ ứng xử ra sao nếu Trung Quốc lại dùng cách thức cũ y như cách ngụy trang tàu dân sự của các tàu Hải Giám, Hải Tuần, Ngư Chính? Liệu pháo đài trên biển giả dạng dân sự sẽ tác động như thế nào đến lợi ích của Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước khác.
4. Việt Nam sẽ chuẩn bị gì?
Trước câu hỏi Trung Quốc sẽ mang giàn khoan khổng lồ này đi đâu, có nhiều giả thiết đặt ra. Sẽ không có tranh cãi nếu chúng nằm tại vùng EEZ Trung Quốc. Nhưng nếu chúng đi vào các vùng tiềm năng dầu khí cao như địa điểm tương tự điểm xảy ra sự cố Bình Minh 2. Việt Nam cần có một thái độ kiên quyết để xua đuổi chúng đi.
Những giàn khoan này có thể sẽ là những căn cứ quân sự với các thiết bị hiện đại ngoài các vùng biển sâu tới 3,000 m (như miền trung bộ Việt Nam). Khi ấy, tàu thuyền đánh cả Việt Nam ra vào vùng này sẽ gặp những trở ngại chờ đón thường trực, và tạo ra sức ép quân sự lên quốc phòng của Việt nam..
Việc quan trọng nhất là Việt nam tiếp tục kiên quyết trong vấn đề áp dụng UNCLOS 1982 cho Biển Đông, phản đối đường chữ U của Trung Quốc bằng việc đưa ra đường phân chia (giả định) của Việt Nam và thông báo cho thế giới biết chủ trương của Việt Nam.
Về mặt luật pháp quốc tế, các quy định trong UNCLOS 82 thì đảo nhân tạo chỉ được đặt trong vùng nội thủy và đảo nhân tạo không được dùng tính đường cơ sở. Nhưng với các cách thức lấn dần của Trung Quốc xưa nay. Việc giành trước, dọa kèm và lấn sau đã thành một chiến thuật thông thường của họ. Có lẽ chính phủ và nhân dân các nước Đông Nam Á cần hội đủ ý chí chính trị để khẳng định với Trung Quốc rằng các giàn khoan này chỉ được khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế của nước sở hữu.
Những giàn khoan này chịu được sóng bão cấp 10, do vậy chúng còn là điểm cư trú cho các tàu thuyền quân sự và dân sự của Trung Quốc.
Đây có thể là cách thức của Trung Quốc đẩy sự việc đến căng thẳng tột cùng sau đó giảm nhẹ rồi thực hành chiếm cứ biển và từ đó khẳng định sự chiếm hữu thật sự Biển Đông qua hình lưỡi bò.
Những giàn khoan loại này hoàn toàn có thể phục vụ nhiều mục tiêu như khai thác, thăm dò dầu khí, băng cháy biển sâu mà các quốc gia Đông Nam Á chưa có cũng như phục vụ các mục tiêu quân sự, dân sự khác.
Ngoài ra, chúng sẽ tạo ra những vị thế mới cho Hải Quân Trung Quốc, và làm suy giảm không gian biển-lãnh thổ biển và không trung của các nước xung quanh như Việt Nam, Philippines.
Giàn khoan 981 còn đặt ra một tiền lệ mới "ai đến trước, được hưởng trước" đối với các tài nguyên không tái tạo tại Biển Đông như dầu, khí, băng cháy.... Tiền lệ này sẽ làm cho các quốc gia như Việt Nam, Philippines rất khó đối phó, nếu Trung Quốc không tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế và UNCLOS 82, DOC 2002. Đây là cơ hội để Trung Quốc độc chiếm tài nguyên đáy Biển Đông.
Nếu không có sự minh bạch về DK 981, Trung Quốc sẽ dần dần ép buộc các quốc gia Biển Đông phải tuân theo chiến lược "gác tranh chấp, cùng khai thác" theo kiểu Trung Quốc.
Đây có thể là tiền đồ cho một "Đồng thuận Biển Đông" kiểu Bắc Kinh, Pax Sino, là "làm trước, nói sau", đưa tất cả Việt Nam, Philippines và cả các nước khác trong thế bị thiệt hại bởi đường chữ U vào thế đã rồi.
Thiết nghĩ, tiếp theo các phản ứng kiên quyết, trong tương lai cộng đồng quốc tế cũng phải có những cơ chế pháp lý cho việc sử dụng biển khơi (biển quốc tế) của những nước khác có khả năng đưa giàn khoan cố định ra biển quốc tế.
Và hành trình hàng hải qua khu vực này sẽ cần những chuẩn bị tương ứng.
Hiểu biết vấn đề để từng bước có biện pháp tháo gỡ sự lấn chiếm ngày càng sâu, càng chặt và càng quy mô hơn -vốn sẽ tạo nên những thế gọng kìm để án ngữ các yết hầu kinh tế và quân sự của Việt Nam- đó chính là một phần nhiệm vụ của mỗi con dân Việt Nam trước lịch sử.
Nếu không có sự phản kháng sớm từ cấp cao nhất của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và cả từ nhiều nước khác về việc giàn khoan 981 được triển khai khai thác dầu khí tại vùng biển thuộc chữ U thì rất có thể Trung Quốc sẽ sớm triển khai hàng loạt các giàn khoan khổng lồ khác từ năm 2012 tới Biển Đông. Khi ấy sự việc sẽ vượt tầm kiểm soát của thế giới, và nguy cơ Biển Đông là "ao nhà Trung Quốc" là rõ ràng Các quốc gia khu vực làm gì trên biển Đông cũng phải cúi đầu xin phép, và quyền tự do hàng hải qua khu vực này sẽ bị hạn chế. Lúc đó ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ bị Trung Quốc khống chế về mọi mặt như một ông "Vua Đông Á"!
5. Kết luận
Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ CNOOC 981 xuống Biển Đông cùng với những động thái trưng bày sức mạnh hải quân là hành động liên tiếp trong chiến lược xâm chiếm và bành trướng xuống Biển Đông nhằm khai thác dầu khí ở Biển Đông bất chấp UNCLOS 1982, luật pháp quốc tế và Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông 2002. Trước khi biết chính xác Trung Quốc đưa dàn khoan CNOOC 981 tới vị trí nào ở Biển Đông, Việt Nam và các nước chung Biển Đông cần tiếp tục có những biện pháp cứng rắn về việc áp dụng UNCLOS 1982 và luật pháp quốc tế để giải quyết những tranh chấp, phân chia quyền lợi công bằng và giữ gìn hòa bình ổn định trong khu vực.